PVLC Thứ 5 Tuần IV Thường Niên

Bài Đọc I: (Năm II): 1 V 2, 1-4. 10-12

"Cha sắp bước vào con đường chung của thiên hạ; Salomon, con hăy can đảm và ăn ở xứng danh nam nhi".

Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.

Gần ngày băng hà, Đavít truyền cho Salomon, con trai của ông rằng: "Cha sắp bước vào con đường chung của thiên hạ. Con hăy can đảm, và ăn ở xứng danh nam nhi. Con hăy tuân giữ các huấn lệnh của Chúa là Thiên Chúa con, hăy đi trong đường lối của Người, hăy tuân giữ các lễ nghi, giới răn, thánh chỉ và giáo huấn của Người như đă ghi chép trong Luật Môsê, ngơ hầu con đi đâu, con cũng hiểu biết mọi việc con làm, để Chúa hoàn thành lời Người đă nói về cha rằng: "Nếu con cái ngươi tuân giữ đường lối của chúng và hết ḷng hết trí đi trước mặt Ta trong chân lư, th́ ngươi sẽ không bao giờ mất người kế vị trên ngôi báu Israel".

Vậy vua Đavít yên giấc với các tổ phụ và được mai táng trong thành Đavít. Đavít làm vua Israel được bốn mươi năm: tại Hebron, ngài cai trị bảy năm; tại Giêrusalem, ngài cai trị ba mươi ba năm. C̣n Salomon lên ngôi Đavít cha ngài, và triều đại ngài rất vững bền.

Đó là lời Chúa. 

Đáp Ca: 1 Sb 29, 10. 11ab. 11d-12a. 12bcd

Đáp: Chúa thống trị trên tất cả mọi loài (c. 12b).

Hoặc đọc: Giàu sang là của Chúa, và vinh quang là của Chúa (c. 12a).

Xướng: 1) Đavít đă chúc tụng Chúa trước mặt toàn thể cộng đồng, người thưa: "Lạy Chúa là Thiên Chúa Israel cha ông chúng con, Chúa đáng chúc tụng, từ đời đời tới muôn muôn thuở". - Đáp.

2) Lạy Chúa, cao sang, quyền bính và vinh quang, chiến thắng, lời ca khen đều thuộc về Chúa, v́ tất cả những ǵ trên trời dưới đất là của Chúa. - Đáp.

3) Chúa ngự trên tất cả những đế vương. Giàu sang là của Chúa, và vinh quang là của Chúa. - Đáp.

4) Chúa thống trị trên tất cả mọi loài, sức mạnh quyền bính đều ở trong tay Chúa; ở trong tay Chúa, mọi uy phong và vững bền.- Đáp. 

Alleluia: Ga 6, 64b và 69b

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, lời của Chúa là thần trí và là sự sống: Chúa có những lời ban sự sống đời đời. - Alleluia. 

Phúc Âm: Mc 6, 7-13

"Người bắt đầu sai các ông đi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai tông đồ và sai từng hai người đi, Người ban cho các ông có quyền trên các thần ô uế. Và Người truyền các ông đi đường đừng mang ǵ, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo. Người lại bảo: "Đến đâu, các con vào nhà nào, th́ ở lại đó cho đến khi ra đi. Ai không đón tiếp các con, cũng không nghe lời các con, th́ hăy ra khỏi đó, phủi bụi chân để làm chứng tố cáo họ". Các ông ra đi rao giảng sự thống hối. Các ông trừ nhiều quỷ, xức dầu chữa lành nhiều bệnh nhân.

Đó là lời Chúa. 

Suy nghiệm Lời Chúa  

Đức Kitô sai đi    

Hôm nay, Thứ Năm trong Tuần 4 Thường Niên hậu Giáng Sinh chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lư" của chung thời điểm phụng vụ kéo dài cho tới Mùa Chay này vẫn tiếp tục được tỏ hiện trong Bài Phúc Âm hôm nay, bài đọc chính yếu cho phần phụng vụ Lời Chúa mỗi ngày.

Ở chỗ, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lư", trong sự kiện Người "gọi mười hai tông đồ và sai từng hai người đi", "Người (đă) ban cho các ông có quyền trên các thần ô uế", và quả thực cái "quyền trên các thần ô uế" này nơi các tông đồ được Người sai đi như thế đă thực sự có tác dụng: "Các ông trừ nhiều quỷ, xức dầu chữa lành nhiều bệnh nhân".

Thế nhưng, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lư" này không phải chỉ được tỏ hiện ở thành quả gặt hái được bởi các tông đồ, mà nhất là ở những ǵ các tông đồ thực hiện theo lời Người căn dặn các vị nữa, bằng không, cho dù các vị có quyền năng trừ quỉ đấy, quyền năng ấy cũng không có tác dụng ǵ hay chẳng tác dụng là bao nhiêu từ các vị, như sau này đă có lần các vị đă không trừ được quỉ (xem Marco 9:18,28-29), nếu các vị không sống theo tinh thần được Người chỉ bảo cặn kẽ kỹ càng trong Bài Phúc Âm hôm nay trước khi các vị lên đường thi hành sứ vụ truyền giáo của các vị:

"Người truyền các ông đi đường đừng mang ǵ, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áoNgười lại bảo: 'Đến đâu, các con vào nhà nào, th́ ở lại đó cho đến khi ra đi. Ai không đón tiếp các con, cũng không nghe lời các con, th́ hăy ra khỏi đó, phủi bụi chân để làm chứng tố cáo họ'".  

Trong lời hướng dẫn sai đi này, các tông đồ thừa sai truyền giáo của Người cần phải tối thiểu có một tinh thần tin tưởng vào Đấng đă sai các vị, ở chỗ siêu thoát hơn là trần tục và phó mặc hơn là cân đo.

Trước hết là tinh thần tin tưởng ở chỗ siêu thoát hơn là trần tục: "đi đường đừng mang ǵ, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo".

Truyền giáo là một công cuộc thần linh, ở chỗ truyền đạt thần linh để có thể hiệp thông thần linh, bởi thế nó không thể nào lệ thuộc vào phương tiện, cho dù là cần thiết, thậm chí cả những ǵ cần thiết mà có thiếu cũng vẫn có thể truyền giáo, vẫn càng đạt hiệu năng hơn, bởi tác nhân chính yếu của công cuộc và sứ vụ truyền giáo là Thánh Thần, Đấng hoàn thành mọi sự theo ư muốn của Chúa Cha, và theo mẫu gương của Chúa Kitô là Đấng "cáo có hang, chim có tổ Con Người không có chỗ dựa đầu" (Mathêu 8:20; Luca 9:58).

Truyền giáo thực sự là việc rao giảng và loan truyền tin mừng cứu độ cho nhân loại, cụ thể nhất ở nơi các vị thừa sai dấn thân truyền giáo ở khắp nơi trên thế giới, từ thời các tông đồ trở đi, dọc suốt gịng lịch sử của Giáo Hội, theo lệnh truyền khẩn trương bất khả châm chước của Chúa Kitô Phục Sinh (xem Mathêu 28:19-20; Marco 16:16); và cũng chính v́ sứ mệnh truyền giáo gắn liền với bản chất của Giáo Hội này (xem Sắc Lệnh Truyền Giáo, 2), Giáo Hội mới đă được lănh nhận "Thánh Thần là Đấng ban sự sống" từ Cha do Chúa Kitô sai xuống với Giáo Hội từ Ngày Lễ Ngũ Tuần (xem Tông Vụ 1:8).

Bởi thế, kinh nghiệm hoạt động tông đồ cho thấy có thời chúng ta làm được những ǵ chúng ta yêu thích, những ǵ mong muốn, những ǵ chúng ta có thừa khả năng, những ǵ chúng ta đă mang lại dồi dào thành quả thiêng liêng cho nhiều người, và chính bản thân chúng ta cũng đă từng được nhiều người biết đến cùng cảm phục, khi chúng ta dấn thân phục vụ hăng say, với tư cách tham gia hay đóng vai tṛ thực hiện những việc tông đồ giáo dân của ḿnh, trong các giáo xứ, cộng đoàn, hội đoàn, phong trào v.v. 

Thế nhưng, kinh nghiệm sống đạo cũng cho thấy không phải là không có trường hợp người tông đồ ấy lại bị người phối ngẫu của ḿnh ngăn cản, hay bị ḷng ganh tị cạnh tranh của những ai đồng hành tông đồ với ḿnh và của ḿnh tẩy chay loại trừ, hoặc bị liệt giường không thể làm ǵ được nữa v.v., chúng ta hăy yên tâm vui ḷng tuân theo Thánh ư Chúa, v́ chính lúc chúng ta không làm được những ǵ chỉ là phương tiện hơn là cùng đích truyền giáo ấy nữa lại chính là lúc chúng ta trở thành đắc lực nhất, bởi bấy giờ Thiên Chúa làm trong chúng ta qua niềm tin và sức chịu đựng của chúng ta.

Chúa Kitô cũng chỉ hoàn tất mọi sự của Người như Đấng đă sai Người mong muốn trên trần gian này một cách trọn vẹn và tối hậu không phải trong thời gian Người c̣n có thể đi đây đi đó rao giảng tin mừng, làm phép lạ, chữa lành và trừ quỉ, mà vào chính lúc Người kể như không c̣n nhúc nhích ǵ được nữa, trên thập tự giá ở Sọ Trường Canvê.

Sau nữa là tinh thần tin tưởng ở chỗ phó mặc hơn là cân đo: "Ai không đón tiếp các con, cũng không nghe lời các con, th́ hăy ra khỏi đó, phủi bụi chân để làm chứng tố cáo họ". Bởi v́, theo tự nhiên, con người, bao gồm cả thành phần thừa sai truyền giáo, thường lưu ư đến thành quả gặt hái được từ những ǵ ḿnh làm và căn cứ vào đó để định lượng mức độ thành công hay thất bại của ḿnh, của công việc ḿnh làm, chứ không hay ít khi hoàn toàn chú trọng đến yếu tố chính yếu là ư muốn tối hậu của Thiên Chúa. 

Điển h́nh nhất là chính Chúa Giêsu Kitô, Người chỉ làm sao chu toàn ư của Đấng đă sai Người mà thôi, nghĩa là việc thành công hay thất bại của Người là ở chỗ Người có hoàn thành đúng như ư muốn của Đấng đă sai Người hay chăng, chứ không phải ở chỗ cứu được tất cả mọi linh hồn hay chăng, hay có bao nhiêu kẻ đă tin vào Người, bằng không th́ Người đă hoàn toàn thảm bại trong công cuộc cứu chuộc loài người khi Người bị chết trên thập tự giá ở Đồi Canvê.

Thành phần không tin Người, "không chấp nhận Người" (Gioan 1:11) th́ Người không cần phải bận tâm phán xét họ, cho bằng chính họ đă tự luận tội họ rồi: "Ai không tin đă bị phán xử rồi, v́ họ không tin vào danh Người Con duy nhất của Thiên Chúa" (Gioan 3:18). Bởi vậy, hăy cứ để Thiên Chúa xét xử những ai chúng ta thấy gian ác, tội lỗi, cứng ḷng, băng hoại v.v., kể cả những ai phạm đến chúng ta, đừng xét đoán họ, đừng nguyền rủa họ, đừng khinh thường họ, nhất là đừng trả đũa những ai phạm đến chúng ta, chúng ta mới thật sự là giống Chúa Kitô và mới có thể làm chứng nhân truyền đạt Người cho tha nhân một cách hiệu năng.

Trong Bài Đọc 1 hôm nay, chúng ta thấy một vua cha "truyền giáo" cho vua con, người sẽ lên kế vị ḿnh, và nội dung của sứ điệp "truyền giáo" từ vua cha cho vua con không phải là những ǵ của vua cha mà là những ǵ chính Thiên Chúa đă truyền dạy vua cha và đồng thời cũng là những kinh nghiệm sống đạo của vua cha với tư cách làm vua, hơn là kinh nghiệm làm vua về chính trị và quản trị chỉ là những kinh nghiệm về phương tiện bề ngoài:

"Cha sắp bước vào con đường chung của thiên hạ. Con hăy can đảm, và ăn ở xứng danh nam nhi. Con hăy tuân giữ các huấn lệnh của Chúa là Thiên Chúa con, hăy đi trong đường lối của Người, hăy tuân giữ các lễ nghi, giới răn, thánh chỉ và giáo huấn của Người như đă ghi chép trong Luật Môsê, ngơ hầu con đi đâu, con cũng hiểu biết mọi việc con làm, để Chúa hoàn thành lời Người đă nói về cha rằng: 'Nếu con cái ngươi tuân giữ đường lối của chúng và hết ḷng hết trí đi trước mặt Ta trong chân lư, th́ ngươi sẽ không bao giờ mất người kế vị trên ngôi báu Israel'".

Phải, để cai trị dân của Chúa th́, trước hết và trên hết mọi sự, các vị vua cần phải gắn bó với Thiên Chúa, bằng cách tuân hành ư muốn của Ngài hơn là của ḿnh, nghĩa là các vị không được trở thành cùng đích của ḿnh, trái lại các vị cần phải trở thành dụng cụ trong tay Ngài, thành phương tiện thuận lợi cho Ngài sử dụng tùy nghi, nhờ đó Thiên Chúa có thể hiện thực những ǵ Ngài muốn nơi họ, những ǵ sẽ được hoàn toàn ứng nghiệm trong lịch sử cho chung cộng đồng của họ.   

Đúng vậycâu cuối cùng của Bài Đọc 1 hôm nay cho biết rằng: "Salomon lên ngôi Đavít cha ngài, và triều đại ngài rất vững bền", đúng như lời Chúa đă hứa với vua cha Đavít là những ǵ cũng đă được chính vua cha truyền lại cho vua con Solomon trước khi chết: "Nếu con cái ngươi tuân giữ đường lối của chúng và hết ḷng hết trí đi trước mặt Ta trong chân lư, th́ ngươi sẽ không bao giờ mất người kế vị trên ngôi báu Israel'".

Bài Đáp Ca hôm nay nói về Vua Đavít liên quan đến niềm tin tưởng và ḷng gắn bó của vua đối với Thiên Chúa, Đấng đă tuyển chọn vua và ở cùng vua, chẳng những ở cùng vua trong triều đại của vua vào thời ấy của dân Do Thái, mà c̣n bền vững đến muôn đời qua gịng dơi của vua là Đức Giêsu Kitô, Đấng Thiên Sai Cứu Thế, Đấng mà vua "đă chúc tụng trước mặt toàn thể cộng đồng" như sau:

1) Đavít đă chúc tụng Chúa trước mặt toàn thể cộng đồng, người thưa: "Lạy Chúa là Thiên Chúa Israel cha ông chúng con, Chúa đáng chúc tụng, từ đời đời tới muôn muôn thuở". 

2) Lạy Chúa, cao sang, quyền bính và vinh quang, chiến thắng, lời ca khen đều thuộc về Chúa, v́ tất cả những ǵ trên trời dưới đất là của Chúa. 

3) Chúa ngự trên tất cả những đế vương. Giàu sang là của Chúa, và vinh quang là của Chúa. 

4) Chúa thống trị trên tất cả mọi loài, sức mạnh quyền bính đều ở trong tay Chúa; ở trong tay Chúa, mọi uy phong và vững bền. 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên 

TN.IV-5.mp3 

 

Ngày 03.02: Thánh ANSGARIÔ, Giám mục và Thánh BLASIÔ Giám mục Tử đạo 

Thánh ANSGARIÔ

Giám mục, tông đồ các xứ Bắc Âu (801-865) 

Ansgariô (hay là Anskar theo Anh ngữ) đă trở thành biệt danh Oscar ngày nay, có nghĩa là “cây lao của Thiên Chúa”. Ansgario gốc người Đức, sinh tại Picardia. Cha Ngài là một viên chức trong triều đ́nh vua Charlemagne, đă gởi Ngài theo học tại tu viện thánh Phêrô ở Corbia. Cậu thiếu niên đă gặp được ở đó những bậc thầy có thế giá. Các môn học trần tục làm Ngài say mê đến độ nơi tâm trí Ngài ư nghĩa tôn giáo ngày một lạc phai. Nhưng một biến cố đă đánh động Ngài mạnh mẽ, nhà vua mà Ngài biết được là rất nổi danh nơi triều đ́nh đă chết.

Cái chết đó cho Ngài thấy được tính cách hư không của mọi cái gọi là nhân bản và trần tục, Ngài cũng nhớ lại rằng: hồi nhỏ khi mất mẹ, trong một giấc mơ, Ngài thấy Đức Trinh Nữ Maria hứa sẻ bảo vệ Ngài luôn măi, nếu biết giữ ǵn đức tin và ḷng mến. Sau cùng Ngài cảm thấy rằng: Chúa muốn ḿnh làm tông đồ. Từ đó Ngài không ngừng tiến tới trong việc học hành cả về đạo lư lẫn việc đời, Ngài nhiệt thành làm tất cả những ǵ là tốt đẹp. Những tiến bộ và nhiệt tâm ấy lớn lao đến nỗi chẳng mấy chốc tới phiên Ngài phải dạy lại cho các tu sĩ trẻ và trẻ em. Vào tuổi hai mươi mốt, Ngài trở thành một trong những thủ lănh tu viện Corvey. Ở Saxe hay là Corbia-Nova, được thiết lập ngay giữa trung tâm trí thức. Là giáo sư thần học, Ngài cũng đảm nhận việc giảng dậy cho dân chúng nữa.

Vào thời này, Harold là vua miền Nam Đan mạch, khi bọn phản loạn săn đuổi, đă xin trú ngụ tại triều đ́nh vua Lu-y đặt tại Mayence. Ong đă trở lại đạo và lănh nhận phép rửa. Khi trở về quê hương, ông đă xin các nhà truyền giáo tới rao giảng Phúc âm cho xứ sở ḿnh. Ebbon, giám mục Reims đă dấn thân trước hết, rồi một khi gần trở lại nước Pháp, Ngài đă chỉ định Ansgario. Ansgario lên đường với một tu sĩ khác nữa. Họ làm liều đi vào miền c̣n hoàn toàn ngoại giáo. Những người trẻ bị bắt làm nô lệ đă trở thành các Kitô hữu đầu tiên của xứ sở. Công việc tông đồ thật vất vả nhọc mệt. Các Ngài bị trục xuất. Các tu sĩ trở lại lănh trách nhiệm.

Một ṭa đại sứ Thụy Điển xin các thừa sai. Lần này Ansgariora đi với một tu sĩ người Corbia. V́ người bạn đường cũ đă chết. Khi đi nagng qua biển Baltique, họ bị bọn cướp tấn công bóc lột hết và bị người Nang lấy trọn quà tặng họ mang dâng nhà vua ở Upsala. Các nhà truyền giáo tới biệt thự của Birca, hoàn toàn trơ trụi. Tại đây các Ngài đă thiết lập một cộng đoàn Kitô hữu. Sau một năm rưỡi mệt nhọc làm việc tông đồ, các Ngài trở về Pháp. Nhà vua đă đặt Ansgario làm tổng giám mục Hambourg bao gồm miền Scandinavia (Bắc Âu) Ansgario đi Roma để được Đức Thánh Cha bổ nhiệm và Đức Gregôriô IV đă đặt Ngài làm đại diện tại cả Na-uy và Thụy Điển. Ngài xây cất một nhà thờ chính ṭa ở Hambourg, thiết lập một tu viện cho các tu sĩ Corbia.

Người ta thấy Ngài quỳ lạy dưới chân người nghèo và khiêm tốn phục vụ họ. Ngài cũng rao giảng trong các miền lân cận bất kể những thủ địch hung ác. Khi ấy như một đám mây người Normandie đặt Hambourg vào ṿng máu lửa, Ansgario chỉ c̣n là một kẻ lang thang sống vất vưởng. Vharles de Chauve đă chiếm một tu viện miền Flandre là nơi Ngài đă thiết lập một trường truyền giáo. Giữa cao điểm của cuộc sống khốn cực âu lo, Ngài đă không hề đánh mất ḷng trông cậy vào Chúa. Cuối cùng những kẻ bách hại bị xua đuổi. Xứ truyền giáo Thụy Điển lại vùng lên.

Một cộng đồng ở Constane đă đặt Ansgario làm giám mục Brême. Ngài trở lại truyền giáo ở Đan mạch, thiết lập một trung tâm tôn gíao mới, cải hóa nhà vua.

Ansgario muốn hiến trọn đời ḿnh cho Thiên Chúa bằng việc tử đạo nhưng Ngài đă qua đời êm ái tại Brême năm 865. Cuộc tử đạo của Ngài chính là cuộc chiến kiên tŕ suốt đời với nhiều những thất bại, lại ít có những thành công rực rỡ. Nhưng sự nhẫn nại của vị anh hùng giám mục lang thang này đă chuẩn bị cho cuộc trở lại các xứ vùng Bắc Âu.


Thánh BLASIÔ 
Giám mục Tử đạo (…. – 316)

Có nhiều câu chuyện vây quanh thánh Blasiô. Ngài là giám mục Sêbasta, miền Armênia; Ngài hiến cả xác hồn cho dân chúng… nhất là dân nghèo, Ngài đă học nghề thuốc, nhưng không bao giờ chữa bệnh cho ai mà không xin Chúa giúp trước đă, dường như vị y sĩ vĩ đại này muốn nói rằng: “Tôi băng bó cho họ nhưng Thiên Chúa chữa lành cho họ”. Ngài rao giảng, day dỗ, nhưng không có bài học nào hay hơn chính gương mẫu đời Ngài.

Năm 315, một cuộc bách hại bùng ra dưới triều đại vua Luciniô. Đức giám mục giúp đỡ các vị tử đạo. Rồi để trốn thoát các kẻ thù địch, Ngài ẩn ḿnh ở hang núi Agêa, là nơi Ngài sống bằng rễ cây và nước lă. Thú rừng thân t́nh bao quanh Ngài và Ngài chữa lành cho những con bệnh tật. Mỗi ngày một đông dân chúng tuốn đến với với Ngài. Nếu thấy Ngài đang cầu nguyện chúng lặng lẽ không ngăn trở và đợi cho đến khi Ngài cầu nguyện xong. Khi đó Thánh nhân quay lại với đoàn vật và chúc lành cho chúng và đoàn vật măn nguyện trở lại sa mạc.

Agricôla, quan cai trị Cappadecia t́m thú rừng sống trong các khu rừng gần Sêbasta, để xé các Kitô hữu. Đoàn người đi săn ngạc nhiên khi thấy cả bầy sói, gấu, sư tử trong một cái hang vây quanh một người, đang cầu nguyện. Họ vội về báo tin cho Agricôla và ông này đă truyền bắt vị tu rừng này.

Thấy binh sĩ của nhà vua. Blasiô b́nh thản nói :- Tôi đă sẵn sàng. Đêm qua Chúa hiện ra và nói với tôi, là Ngài ưng nhận lễ hy sinh của tôi.

Trên đường Ngài đi qua, dân chúng tuốn đến, trong số ấy có cả các lương dân. Họ khóc lóc xin người chúc lành. Một người mẹ đặt đứa trẻ đang hấp hối dưới chân Blasiô và nh́n trời bà la : – Lạy Chúa nhân từ, xin đừng bỏ qua lời cầu của tôi tớ Ngài. Xin hăy trả lại sức khỏe cho tạo vật bé bỏng của Ngài.

Blasiô cúi xuống đứa trẻ hấp hối, cầu nguyện. Trời cao đă nghe Ngài, và người mẹ hân hoan đón nhận lại đứa con tràn đầy sức sống.

Khi đức Giám mục xuất hiện, Agricôla đưa nhiều hứa hẹn lẫn lời đe dọa. Nhưng điều này đă luống công. Thánh nhân nói : – Tôi không sợ các cực h́nh Ngài đe dọa v́ thân xác tôi nằm trong tay Ngài, nhưng linh hồn tôi th́ không.

Ngài đă bị đánh đập tàn nhẫn và bị tống ngục. Các Kitô hữu tới thăm, Ngài an ủi khích lệ và chữa lành cho họ. Ngài đă giải cứu cho một đứa trẻ gần ngộp thở v́ mắc xương cá. V́ kỷ niệm này và cũng v́ lời cầu nguyện sau cùng khi đưa cổ cho lư h́nh, thánh Blasiô được kêu cầu cách đặc biệt để xin Ngài chữa lành các bệnh nhân đau cổ họng.

Những tường thuật về các phép lạ đi kèm với cái chết của Ngài thành gia sản truyền tụng rất được các giáo phụ ưa thích. Sau mỗi cuộc tra xét với một cực h́nh mới lại có một phép lạ đánh dấu cuộc trở lại ngay trong pḥng giam của Ngài. Phép lạ lừng danh nhất là phép lạ về ngẫu tượng. Các Kitô hữu đến săn sóc những vết thương cho Ngài, đă ném xuống hồ các thần tượng của nhà cầm quyền. Họ bị tố giác và chịu tử dạo. Blasiô cũng bị kết án d́m vào hồ này, nhưng Ngài làm dấu thánh giá và đi trên mặt nước, rồi Ngài mời các quan ṭa đi theo để minh chứng uy quyền các thần linh họ thờ. Những người nhận lời bị chết ch́m ngay.

Vị tử đạo vừa mới cho thấy vinh quang Thiên Chúa, liền được một thiên thần mời trở lại bờ hồ để chịu cực h́nh, Ngài vâng lời ngay. Agricôla bối rối liền truyền chém đầu Ngài. Blasiô trước khi chết, đă nài xin Chúa tỏ ḷng nhân từ với những ai nhờ lời Ngài bầu cử mà xin cứu giúp.

Nguồn: daminhvn.net

ThanhBlasio-ThanhAnsgario.mp3 

 https://youtu.be/OMYMCurEd8k